Thứ Ba, 14 tháng 7, 2009

Paul Krugman - Không Đau đớn , Không Thành tựu

No Pain, No Gain?

Suy thoái, quá khứ và hiện tại.


Ngày xưa có một đảo quốc dân cư đông đúc, dù thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, nhưng bằng lao động cần cù và sự thông minh đã tự mình phát triển thành một thế lực công nghiệp chính của thế giới. Nhưng rồi đến một ngày điều kỳ diệu kết thúc. Sự bùng nổ quá nóng ngắn ngủi được tiếp nối với sự suy giảm kéo dài trong gần một thập kỷ. Một đất nước mà tên tuổi một thời là tấm gương về sự tiên tiến kinh tế giờ thành hình ảnh của vinh quang lụi tàn.

Như một điều hiển nhiên, cuộc tranh luận về nguyên nhân và cách chữa trị căn bệnh của nền kinh tế bùng phát. Nhiều nhà quan sát đổ cho các nhân tố cấu trúc sâu xa là nguyên nhân của sự suy thoái của nền kinh tế -- các thiết chế thất bại trong việc thích ứng với một thế giới đang thay đổi, các cơ hội tận dụng các công nghệ mới bị bỏ lỡ, sự cứng nhắc phổ biến và thiếu tính linh hoạt. Nhưng có một ít bất đồng. Trong khi thừa nhận các nhân tố này có ảnh hưởng, họ khẳng định rằng phần lớn cuộc suy thoái có nguồn gốc đơn giản hơn --đó chính là kết quả không tránh khỏi của một chính sách tiền tệ bảo thủ quá mức, chính sách gắn chặt với tiêu chuẩn kiểu cũ về tính hợp lý khi mà cái nền kinh tế thực sự cần là chạy máy in.

Không cần phải nói, "những nhà lạm phát học" bị quan điểm chủ đạo loại ra. Các ngân hàng trung ương và các quan chức bộ tài chính cho rằng, áp dụng đề nghị của họ sẽ huỷ hoại niềm tin và làm cho sự suy thoái càng tệ thêm. Và thậm chí nếu chính sách lạm phát mang lại cho nền kinh tế một cú giật sức khoẻ nhân tạo giả, chúng sẽ phản tác dụng trong dài hạn vì chúng sẽ làm dịu sức ép đòi hỏi sự đổi mới cơ bản. Tốt hơn là uống thuốc đắng bây giờ --cứ để thất nghiệp tăng, buộc các công ty phải thanh lý công suất thừa --còn hơn là trì hoãn ngày phán xét.

OK, OK, Tôi đã từng sử dụng thủ thuật viết lách thế nầy trước đây. Đoạn ở trên có thể mô tả cuộc tranh luận hiện thời về nước Nhật. (Chính tôi, dĩ nhiên, là người ủng hộ mạnh mẽ nhất việc dùng lạm phát để chữa trị sự suy thoái của Nhật.) Nhưng chúng cũng mô tả nước Anh trong những năm 1920--một điểm tôi đọc được trong kỳ nghỉ: tập hai cuốn tiểu sử John Maynard Keynes của Robert Skidelsky, nghiên cứu giai đoạn quan trọng từ năm 1920 đến 1937. (Tên của tập sách, một cách ngẫu nhiên, là John Maynard Keynes:Nhà kinh tế học - Vị Cứu tinh)

Cuốn sách của Skidelsky, tin hay không, thực sự rất hấp dẫn: Cho dù là một nhà kinh tế học, Keynes có một cuộc sống thú vị, nói thật, cái làm tôi tự thấy ghen tị là cái cách mà ông ấy làm để thay đổi thế giới mà không cần đi lại thăm thú quá nhiều nơi. (Hãy hình dung để trở thành một nhà kinh tế học lỗi lạc mà chưa từng phải chịu mệt mỏi do chênh lệch múi giờ, hoặc chưa bao giờ phải có những chuyến đi đến những nơi mà thời gian đi lại còn nhiều hơn là thời gian dừng lại nơi đó.) Và bất cứ ai quan tâm đến lịch sử tư tưỏng kinh tế sẽ tìm thấy câu chuyện kể cách thức Keynes dần dần và vất vả đi đến ý tưởng của mình -- và quan điểm mới mẻ của ông xung đột với các trường phái tư tưởng đối nghịch như thế nào--rất thú vị. (Xem một ví dụ ở đây.)

Nhưng phần quan trọng của cuốn sách của Skidelsky là phần cộng hưởng thực sự với các sự kiện hiện thời liên quan đến cuộc tranh luận ồn ào về chính sách tiền tệ của nước Anh trong những năm 1920. Giống nước Mỹ, nước Anh trải qua một đợt bùng nổ lạm phát, đặc biệt do đầu cơ bất động sản, ngay sau Chiến tranh Thế giới lần I. Ở cả hai nước, theo sau đợt bùng nổ nầy là sự suy thoái khủng khiếp. Nhưng trong khi nước Mỹ hồi phục nhanh chóng và trải qua một thập kỷ thịnh vượng sung mãn trước khi cuộc Đại Khủng Hoảng xảy ra, sự suy thoái của Anh chưa bao giờ thực sự kết thúc. Thất nghiệp, trung bình ở mức 4 phần trăm trước chiến tranh, đã ngoan cố duy trì trên 10 phần trăm. Có một sự tương tự với nước Nhật hiện đại, "nền kinh tế bong bóng" của nó trong những năm cuối 1980 vỡ tung cách đây tám năm và không bao giờ hồi phục lại.

Hầu như những người từng nghĩ về nó đều đồng ý là sự suy sụp tương đối dài hạn của nước Anh vốn là một thế lực kinh tế có nhiều điều liên quan đến các nhược điểm mang tính cấu trúc: sự phụ thuộc quá mức vào các ngành truyền thống như than và bông, một hệ thống giáo dục mang tính tầng lớp vẫn cố tạo ra những nhà thượng lưu chứ không phải là các kỹ sư hay nhà quản lý, một nền văn hoá kinh doanh thất bại trong việc tạo nên sự chuyển đổi từ các doanh nghiệp gia đình thành các công ty hiện đại. (Keynes, không quanh co, viết rằng "nguyên tắc thừa kế trong sự chuyển đổi tài sản và kiểm soát doanh nghiệp chính là lý do tại sao sự lãnh đạo sự nghiệp Tư bản yếu kém và ngu dốt. Các nhân vật thế hệ thứ ba thống trị quá nhiều." Tương tự, những người nghĩ về điều đó đồng ý rằng nước Nhật hiện đại có các vấn đề cấu trúc sâu sắc: sự thất bại để thoát khỏi các nhành công nghiệp nặng truyền thống, một hệ thống giáo dục nhấn mạnh sự tuân phục thay vì sáng tạo, một hệ thống kinh doanh cách ly các nhà quản lý các công ty lớn khỏi thực tế thị trường.

Nhưng các vấn đề cấu trúc của loại nầy liệu có nhất thiết dẫn đến thất nghiệp cao, như đã đối nghịch với tăng trưởng chậm? Có phải suy thoái là cái giá của sựu kém hiệu quả? Lúc đó Keynes không nghĩ như vậy, và những ai trong chúng ta nghĩ như các ..không nghĩ như thế lúc nầy. Suy thoái, chúng ta khẳng định, có thể và nên đối phó bằng những giải pháp tạm thời ngắn hạn; hãy để chúng ta giải quyết các vấn đề cấu trúc của mình, nhưng đồng thời cũng phải để chúng ta giữ cho lực lượng lao động có việc làm bằng cách in đủ tiền cho người tiêu dùng và các nhà đầu tư chi tiêu.

Một phản đối lại đề nghị đó là điều đó sẽ trực tiếp gây hại thay vì làm lợi. Trong những năm 1920, những người tốt và những người vĩ đại tin rằng một

điều kiện tiên quyết thiết yếu cho sự phục hồi của nước Anh là quay trở lại tiêu chuẩn vàng trước chiến tranh --có nghĩa là, làm cho một đồng bảng có giá trị $4,86, như trước chiến tranh. Người ta cho rằng mục tiêu nầy đáng để đạt được cho dù nó đòi hỏi một sự sút giảm to lớn về tiền lương và giá cả -- nghĩa là thiểu phát chung. Thông qua việc giảm giá đồng bảng vốn xảy ra từ năm 1914 để tránh lạm phát rõ ràng là vô trách nhiệm.

Thời nay, dĩ nhiên sẽ ngược lại, có vẻvô trách nhiệm nếu ủng hộ lạm phát nhân danh của chuẩn mực tiền tệ lịch sử (dù Hong Kong hiện đang theo một chính sách thiểu phát thực tế (de facto) để bảo vệ tỉ giá cố định giữa đồng tiền của nó và đồng đô-la Mỹ). Nhưng tính chính thống tiếp tục thắng thế logic của phân tích kinh tế. Trong trường hợp nước Nhật, có một tình huống trí tuệ hấp dẫn cho một chiên lược hồi phục dựa trên sự tạo ra thận trọng "lạm phát được quản lý". Nhưng những người vĩ đại và những người tốt biết rằng sự ổn định giá là thiết yếu và lạm phát luôn luôn là một điều xấu.

Tuy thế, điều làm tôi chú ý trong cuốn sách của Skidelsky là mức độ mà các quan điểm kiểu cũ trong những năm 1920 xem thất nghiệp cao như là một điều tốt, một dấu hiệu chỉ ra rằng sự vượt mức đang được hiệu chỉnh và kỷ luật được phục hồi --như thế ngay cả một nỗ lực thành công để phục hồi nền kinh tế cũng là một sai lầm. Và hiện nay người ta được nghe cùng một lập luận như thế. Như một nhà kinh tế Nhật hiểu biết bình thường nói với tôi, "Đề nghị của ông chỉ để cho phép những gã đó tiếp tục thực hiện những việc cũ như trước, chỉ khi cuộc suy thoái rốt cuộc mang đến sự thay đổi."

Nói ngắn gọn, ngày nay ở Nhật --và có lẽ ở Mỹ ngày mai -- nằm đằng sau những lập luận tại sao chúng ta không thể tiền tệ hoá cách thức thoát khỏi sự suy thoái là niềm tin cho rằng đau đớn là tốt, rằng nó sẽ xây dựng một nền kin tế mạnh hơn. Tốt thôi, hãy để Keyne nói lời cuối cùng: "Nó là sự phê phán nghiêm trọng cách thức quản lý hoạt động kinh tế của chúng ta, điều này có vẻ đối với bất kỳ ai là một đề nghị hợp lý."


sidebar



Từ trao đổi vừa rồi với Gene Epstein của Barron's trong mục "E-Mail to the Editors", tôi rất buồn cười câu chuyện sau từ cuốn Nhà Kinh tế - Vị Cứu tinh


Năm 1931 Friedrich Hayek giảng bài tại Cambridge giải thích quan điểm của ông về cách thức đối phó với Cuộc Khủng hoảng --là "cách chữa trị nhanh nhất là đối với những ngừơi tiết kiệm nhiều hơn, đưa lại sựkhôi phục trong đầu tư."...Mọi người im lặng hoàn toàn trước giải thích của ông, nhưng Richard Kahn [một trong những người giúp Keynes phát triển ý tưởng của ông] đang ngồi nghe cảm thấy cần phá vỡ tảng băng, "Có phải quan điểm của ông là," ông ta hỏi Hayek, "nếu tôi ngày mai tôi mua một cái áo choàng mới sẽ làm tăng thất nghiệp?" "Vâng," Hayek trả lời, quay trở lại tấm bảng đầy những hình tam giác, "nhưng sẽ phải có một lập luận toán học rất dài để giải thích tại sao."

Article URL: http://www.slate.com/id/13630/

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2009

Paul Krugman - Lý thuyết Váng vất Say xỉn

The Hangover Theory

Are recessions the inevitable payback for good times?


A few weeks ago, a journalist devoted a substantial part of a profile of yours truly to my failure to pay due attention to the "Austrian theory" of the business cycle—a theory that I regard as being about as worthy of serious study as the phlogiston theory of fire. Oh well. But the incident set me thinking—not so much about that particular theory as about the general worldview behind it. Call it the overinvestment theory of recessions, or "liquidationism," or just call it the "hangover theory." It is the idea that slumps are the price we pay for booms, that the suffering the economy experiences during a recession is a necessary punishment for the excesses of the previous expansion.

The hangover theory is perversely seductive—not because it offers an easy way out, but because it doesn't. It turns the wiggles on our charts into a morality play, a tale of hubris and downfall. And it offers adherents the special pleasure of dispensing painful advice with a clear conscience, secure in the belief that they are not heartless but merely practicing tough love.
Powerful as these seductions may be, they must be resisted—for the hangover theory is disastrously wrongheaded. Recessions are not necessary consequences of booms. They can and should be fought, not with austerity but with liberality—with policies that encourage people to spend more, not less. Nor is this merely an academic argument: The hangover theory can do real harm. Liquidationist views played an important role in the spread of the Great Depression—with Austrian theorists such as Friedrich von Hayek and Joseph Schumpeter strenuously arguing, in the very depths of that depression, against any attempt to restore "sham" prosperity by expanding credit and the money supply. And these same views are doing their bit to inhibit recovery in the world's depressed economies at this very moment.

The many variants of the hangover theory all go something like this: In the beginning, an investment boom gets out of hand. Maybe excessive money creation or reckless bank lending drives it, maybe it is simply a matter of irrational exuberance on the part of entrepreneurs. Whatever the reason, all that investment leads to the creation of too much capacity—of factories that cannot find markets, of office buildings that cannot find tenants. Since construction projects take time to complete, however, the boom can proceed for a while before its unsoundness becomes apparent. Eventually, however, reality strikes—investors go bust and investment spending collapses. The result is a slump whose depth is in proportion to the previous excesses. Moreover, that slump is part of the necessary healing process: The excess capacity gets worked off, prices and wages fall from their excessive boom levels, and only then is the economy ready to recover.

Except for that last bit about the virtues of recessions, this is not a bad story about investment cycles. Anyone who has watched the ups and downs of, say, Boston's real estate market over the past 20 years can tell you that episodes in which overoptimism and overbuilding are followed by a bleary-eyed morning after are very much a part of real life. But let's ask a seemingly silly question: Why should the ups and downs of investment demand lead to ups and downs in the economy as a whole? Don't say that it's obvious—although investment cycles clearly are associated with economywide recessions and recoveries in practice, a theory is supposed to explain observed correlations, not just assume them. And in fact the key to the Keynesian revolution in economic thought—a revolution that made hangover theory in general and Austrian theory in particular as obsolete as epicycles—was John Maynard Keynes' realization that the crucial question was not why investment demand sometimes declines, but why such declines cause the whole economy to slump.

Here's the problem: As a matter of simple arithmetic, total spending in the economy is necessarily equal to total income (every sale is also a purchase, and vice versa). So if people decide to spend less on investment goods, doesn't that mean that they must be deciding to spend more on consumption goods—implying that an investment slump should always be accompanied by a corresponding consumption boom? And if so why should there be a rise in unemployment?

Most modern hangover theorists probably don't even realize this is a problem for their story. Nor did those supposedly deep Austrian theorists answer the riddle. The best that von Hayek or Schumpeter could come up with was the vague suggestion that unemployment was a frictional problem created as the economy transferred workers from a bloated investment goods sector back to the production of consumer goods. (Hence their opposition to any attempt to increase demand: This would leave "part of the work of depression undone," since mass unemployment was part of the process of "adapting the structure of production.") But in that case, why doesn't the investment boom—which presumably requires a transfer of workers in the opposite direction—also generate mass unemployment? And anyway, this story bears little resemblance to what actually happens in a recession, when every industry—not just the investment sector—normally contracts.

As is so often the case in economics (or for that matter in any intellectual endeavor), the explanation of how recessions can happen, though arrived at only after an epic intellectual journey, turns out to be extremely simple. A recession happens when, for whatever reason, a large part of the private sector tries to increase its cash reserves at the same time. Yet, for all its simplicity, the insight that a slump is about an excess demand for money makes nonsense of the whole hangover theory. For if the problem is that collectively people want to hold more money than there is in circulation, why not simply increase the supply of money? You may tell me that it's not that simple, that during the previous boom businessmen made bad investments and banks made bad loans. Well, fine. Junk the bad investments and write off the bad loans. Why should this require that perfectly good productive capacity be left idle?

The hangover theory, then, turns out to be intellectually incoherent; nobody has managed to explain why bad investments in the past require the unemployment of good workers in the present. Yet the theory has powerful emotional appeal. Usually that appeal is strongest for conservatives, who can't stand the thought that positive action by governments (let alone—horrors!—printing money) can ever be a good idea. Some libertarians extol the Austrian theory, not because they have really thought that theory through, but because they feel the need for some prestigious alternative to the perceived statist implications of Keynesianism. And some people probably are attracted to Austrianism because they imagine that it devalues the intellectual pretensions of economics professors. But moderates and liberals are not immune to the theory's seductive charms—especially when it gives them a chance to lecture others on their failings.

Few Western commentators have resisted the temptation to turn Asia's economic woes into an occasion for moralizing on the region's past sins. How many articles have you read blaming Japan's current malaise on the excesses of the "bubble economy" of the 1980s—even though that bubble burst almost a decade ago? How many editorials have you seen warning that credit expansion in Korea or Malaysia is a terrible idea, because after all it was excessive credit expansion that created the problem in the first place?

And the Asians—the Japanese in particular—take such strictures seriously. One often hears that Japan is adrift because its politicians refuse to make hard choices, to take on vested interests. The truth is that the Japanese have been remarkably willing to make hard choices, such as raising taxes sharply in 1997. Indeed, they are in trouble partly because they insist on making hard choices, when what the economy really needs is to take the easy way out. The Great Depression happened largely because policy-makers imagined that austerity was the way to fight a recession; the not-so-great depression that has enveloped much of Asia has been worsened by the same instinct. Keynes had it right: Often, if not always, "it is ideas, not vested interests, that are dangerous for good or evil."

Paul Krugman writes a twice-weekly column for the New York Times and is professor of economics and international affairs at Princeton University. His home page contains links to many of his other articles and essays.

Article URL: http://www.slate.com/id/9593/

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2009

Paul Krugman - Nhà lý thuyết bất đắc dĩ

The Accidental Theorist

Chỉ làm và không chơi khiến cho William Greider thành một đứa trẻ đần độn




Thử tưởng tượng một nền kinh tế sản xuất chỉ hai thứ: xúc xích và bánh mì. Người tiêu dùng trong nền kinh tế khăng khăng rằng cứ một xúc xích đi với một bánh mì, và ngược lại. Và lao động là đầu vào duy nhất của sản xuất

OK, hết giờ. Trước khi chúng ta đi tiếp, tôi cần phải hỏi rằng bạn nghĩ một bài viết bắt đầu với cái cách như thế là cái thứ gì? Nó có vẻ ngu xuẩn? Bạn hầu như sẽ chuyển trang, cho rằng đây không thể là một cái gì đó quan trọng?

Một trong những tiêu điểm của bài báo nầy là minh hoạ một nghịch lý: Bạn không thể nghiên cứu kinh tế học một cách nghiêm chỉnh nếu bạn không muốn vui đùa. Lý thuyết kinh tế không phải là một tập hợp các tuyên bố của những nhân vật quyền lực khoác lác. Chủ yếu, nó là một tập hợp các thử nghiệm tư duy -- những mẩu chuyện, nếu bạn muốn gọi như thế --nhằm nắm bắt logic của các quá trình kinh tế theo cách thức được đơn giản hoá. Cuối cùng, dĩ nhiên là vậy, các ý tưởng sẽ được kiểm tra so với thực tế. Nhưng thậm chí để biết thực tế nào là thích hợp, bạn phải vui đùa cùng với các ý tưởng đó trên nền giả định. Và tôi dùng chữ “vui đùa” một cách thận trọng: Các nhà tư tưởng sáng tạo, trong kinh tế học và trong những ngành khác, thường có tính nết rất kỳ dị.

Tôi cũng sẽ dùng ví dụ xúc xích và bánh mì của mình để nói về công nghệ, việc làm, và tương lai của chủ nghĩa tư bản. Những độc giả cho rằng những đề tài lớn chỉ có thể được đề cập trong những cuốn sách lớn -- những cuốn trình bày những ý tưởng lớn lao bằng những từ đao to búa lớn --sẽ cảm thấy phong cách nghiên cứu của tôi rất khó chịu. Những người như thế tưởng tượng là khi họ viết hay trích dẫn những cuốn sách như vậy, họ rất uyên bác. Nhưng thường là không phải thế, mà là họ ngu xuẩn một cách uyên bác. Và cách tốt nhất để tránh sự ngu xuẩn đó là vui chơi với một hay hai thử nghiệm tư duy.

Vì thế hãy tiếp tục. Giả sử rằng nền kinh tế của chúng ta khởi đầu sử dụng 120 triệu nhân công, hầu như ở mức toàn dụng việc làm. Cần hai ngày công để sản xuất một cái xúc xích hay một chiếc bánh mì. (Nầy, thực tế không phải là điểm bàn ở đây.) Giả sử rằng nền kinh tế sản xuất thứ mà người tiêu dùng muốn, mỗi ngày nó phải sản xuất 30 triệu xúc xích và 30 triệu bánh bao, mỗi lĩnh vực sử dụng 60 triệu nhân công.

Bây giờ, giá sử công nghệ được cải tiến cho phép một công nhân sản xuất được một xúc xích trong chỉ một ngày thay vì hai. Và giả sử nền kinh tế lợi dụng năng suất tăng lên nầy để tăng tiêu dùng lên mức 40 triệu xúc xích với bánh mì một ngày. Điều nầy đồi hỏi phân bố lại lao động, bây giờ chỉ cần 40 triệu nhân công sản xuất xúc xích, 80 triệu sản xuất bánh mì.

Rồi thì một nhà báo nổi tiếng xuất hiện. Anh ta nhìn vào diễn biến vừa xảy ra và tuyên bố rằng một điều kinh khủng đã xảy ra: Hai mươi triệu việc làm xúc xích đã bị huỷ hoại. Khi nhìn sâu hơn vào vấn đề, anh ta phát hiện rằng sản lượng xúc xích thực tế đã tăng lên 33 phần trăm, nhưng việc làm đã giảm 33 phần trăm. Anh ta bắt đầu một công trình nghiên cứu kéo dài hai năm, đi quanh thế giới trao đổi với những tổng giám đốc, quan chức chính quyền và lãnh đạo nghiệp đoàn. Bức tranh trở nên rõ ràng hơn với anh ta: Cung đang tăng với tốc độ chóng mặt, và không có đủ nhu cầu tiêu dùng. Đúng vậy, việc làm vẫn được tạo ra ở khu vực sản xuất bánh mì, nhưng rồi cách mạng công nghệ sẽ sớm huỷ hoại việc làm ở đó thôi. Nói ngắn gọn, chủ nghĩa tư bản toàn cầu đang lao mạnh vào khủng hoảng. Ông ta viết ra các kết luận cảnh báo của mình trong một cuốn sách dày 473 trang; đầy những sự kiện giật mình về các thay đổi đang diễn ra trong công nghệ và trên thị trường toàn cầu; xen đầy những thuật ngữ tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Hoa, và thậm chí tiếng Mã-lai; và được nhấn mạnh với những nhận xét sắc sảo đặc biệt về tầm nhìn phiến diện của các nhà kinh tế truyền thống. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi vì sự uyên bác và sắc sảo của nó, và tác giả của nó nhanh chóng trở thành con sư tử của buổi xiếc diễn thuyết.

Trong khi đó, những nhà kinh tế sửng sốt một chút, vì họ thực sự không thể hiểu được ông ta muốn nói gì. Vâng, những thay đổi công nghệ đã đưa đến sự chuyển dịch trong cấu trúc ngành của việc làm. Nhưng không có sự tổn thất thuần về việc làm (net job loss); và không có lý do gì để nghĩ đến một sự tổn thất như vậy trong tương lai. Rốt cuộc, giả sử năng suất tăng gấp đôi trong sản xuất bánh mì cũng như xúc xích. Tại sao nền kinh tế không lợi dụng năng suất cao hơn đó để tăng tiêu dùng lên 60 triệu xúc xích với bánh mì, sử dụng 60 triệu nhân công trong mỗi lĩnh vực?

Hay, đặt nó theo một cách khác: Sự tăng năng suất trong một lĩnh vực có thể rất dễ dàng làm giảm việc làm trong lĩnh vực đó. Nhưng việc giả định tăng năng suất làm giảm việc làm trong nền kinh tế như một tổng thể lại là một việc hoàn toàn khác. Trong nền kinh tế giả định của chúng ta - hiển nhiên rằng - và đúng phải như vậy - việc giảm số lượng nhân công sản xuất xúc xích làm giảm số lượng việc làm trong ngành xúc xích nhưng làm tăng một số việc làm đúng bằng như vậy trong ngành bánh mì, và ngược lại. Dĩ nhiên, bạn sẽ chảng bao giờ biết được điều đó từ những người sản xuất xúc xích, cho dù bạn đi đến bao nhiêu quốc gia; bạn cũng không biết được điều đó từ các nhà sản xuất bánh mì. Chính đó là kiến thức bạn chỉ có thể thu được bằng cách chơi đùa với những nền kinh tế giả định -- bằng việc tham gia vào những thử nghiệm tư duy.

Ở vào lúc nầy, tôi hình dung độc giả có ba điều phản đối.

Thứ nhất, phải chăng thử nghiệm tư duy của tôi quá giản đơn để cho chúng ta biết được mọi thứ về thế giới thực?

Không, không hề một chút nào. Vì một điều, nếu bạn thay cho "xúc xích" bằng "sản xuất" và "bánh mì" bằng "dịch vụ," câu chuyện của tôi thực rất giống với lịch sử của nền kinh tế Mỹ trong thế hệ vừa qua. Từ năm 1970 đến nay, sản lượng sản xuất của nền kinh tế tăng xấp xỉ gấp đôi; do năng suất tăng, số việc làm đã thực tế giảm nhẹ. Việc sản xuất dịch vụ cũng xấp xỉ tăng gấp đôi -- nhưng có rất ít sự cải tiến năng suất, và việc làm tăng 90 phần trăm. Nhìn chung, nền kinh tế Mỹ đã tăng thêm 45 triệu việc làm. Như thế trong thế giới thực, cũng như trong câu chuyện kể, sự tăng năng suất trong một ngành dường như dẫn đến tăng thêm việc làm trong một ngành khác.

Nhưng có một điểm sâu hơn: Một câu chuyện giản đơn không giống như câu chuyện đơn giản. Cho dù câu chuyện nhỏ của chúng ta phát hiện những khả năng mà không một cuộc điều tra nào có thể khám phá ra. Cụ thể, nó cho rằng cái có vẻ như là một kết luận hiển nhiên đối với một nhà bình luận ngây thơ -- nếu tăng năng suất trong ngành thép làm giảm số lượng việc làm của công nhân thép thì sự tăng năng suất trong nền kinh tế như là một tổng thể sẽ làm giảm số việc làm trong nền kinh tế như một tổng thể -- rất có thể là một sai lầm suy diễn nghiêm trọng.

Nhưng hãy hượm -- cái gì cho phép tôi giả định rằng nhu cầu của người tiêu dùng sẽ tăng đủ để hấp thụ tất cả sản lượng tăng thêm? Một câu trả lời hay là: Tại sao không? Nếu sản xuất tăng gấp đôi, và tất cả sản lượng được bán hết, khi đó tổng thu nhập cũng sẽ gấp đôi; vì thế tại sao tiêu dùng không thể gấp đôi?

Điều đó có nghĩa là, tại sao lại có sự thiếu hụt trong tiêu dùng chỉ vì nền kinh tế sản xuất nhiều hơn?

Dẫu sao, lại có một câu trả lời sâu hơn ở đây. Có khả năng nền kinh tế chịu đựng một sự thiếu hụt chung về cầu -- có những cuộc suy thoái. Tuy nhiên, sự suy giảm đó bản chất là về tiền tệ -- chúng xảy ra vì toàn bộ mọi người cố gắng giữ nhiều tiền mặt hơn số có thực sự trong lưu thông. (Kiến thức này là bản chất của kinh tế học Keynes.) Và chúng luôn có thể được chữa trị bằng cách phát hành thêm tiền -- chấm, hết chuyện. Một sự vượt mức công suất sản xuất chung (so với cái gì?) không dính líu mảy may gì với nó.

Có lẽ phản đối lớn nhất đối với câu chuyện xúc xích của tôi là chút ít cuối cùng về nhà báo nổi tiếng. Chắc chắn là không một nhân vật đáng kính nào lại viết nguyên một cuốn sách về kinh tế thế giới dựa trên những sai lầm rõ ràng đến vậy. Và cho dù có viết cũng chẳng ai quan tâm.

Nhưng trong khi nền kinh tế xúc xích-và-bánh mì là giả định, nhà báo thì không. Phóng viên của tờ Rolling Stone William B. Greider vừa mới xuất bản một cuốn sách được giới thiệu rộng rãi nhan đề One World, Ready or Not: The Manic Logic of Global Capitalism. Và cuốn sách của anh ta chính xác là cái mà tôi vừa mô tả: một sự trình bày toàn cảnh, đồ sộ nền kinh tế thế giới, hàng núi sự kiện chồng trên sự kiện (một số sự kiện quan trọng hoá ra là sai, nhưng đó là chuyện khác) để chứng minh quả quyết luận đề cung toàn cầu đang vượt cầu toàn cầu. Trời ơi, tất cả dữ kiện không tương ứng với đề tài; vì rốt cuộc chẳng là gì khác ngoài việc chứng minh rằng có nhiều ngành có năng suất tăng lên và sự xâm nhập của những nhà sản xuất mới dẫn đến sự tổn thất các việc làm truyền thống -- có nghĩa là, sản xuất xúc xích tăng, nhưng số việc làm xúc xích giảm. Dường như không một ai cảnh báo Greider anh ta cần lưu ý đến sai lầm suy diễn là logic của nền kinh tế như một tổng thể không giống với logic của một thị trường riêng lẻ.

Tôi nghĩ tôi biết điều mà Greider sẽ trả lời là: trong lúc tôi chỉ nói về lý thuyết, còn lập luận của anh ta lại dựa trên thực tế. Tuy vậy, sự thực là nền kinh tế Mỹ đã tăng thêm 45 triệu việc làm nữa trong vòng 25 năm qua -- quá nhiều việc làm đã được tăng thêm trong lĩnh vực dịch vụ vượt hẳn số việc làm mất đi trong lĩnh vực sản xuất. Quan điểm của Greider, nếu tôi có thể hiểu được, cho rằng đây chỉ là sự giảm nhẹ -- rằng bây giờ bất cứ ngày nào, toàn bộ nền kinh tế sẽ bắt đầu giống như ngành thép. Nhưng thuần tuý chỉ là tiên đoán lý thuyết. Và sự lý thuyết hoá của Greider hoàn toàn là tự biện và giản đơn vì anh ta là một nhà lý thuyết bất đắc dĩ, một nhà lý thuyết bất chấp chính mình -- bởi vì anh ta và những độc giả khinh suất của mình tưởng tượng rằng các kết luận của anh ta đơn giản nảy sinh từ dữ kiện, không biết được rằng chúng được dẫn dắt bởi những giả định ngầm không thể tồn tại dưới ánh sáng ban ngày.

Không cần phải nói rằng tôi rất ít hy vọng công chúng, và thậm chí một số trí thức, sẽ nhận biết Greider đã viết một cuốn sách cực kỳ ngu xuẩn đến thế nào. Rốt cuộc, nó chẳng là cái gì ngoài sự ngu xuẩn -- nó trông có vẻ hiểu biết và uyên bác, và được viết với giọng văn cực kỳ nghiêm chỉnh. Nó dùng sự khả tín để khẳng định chân lý, bài học chính người ta có thể học được từ473 trang sách đó là thật quá dễ để một người thông minh, nhiệt tình đạp phải dây giày tri thức của chính mình.

Tại sao nó lại xảy ra? Một phần của câu trả lời là Greider đã tách mình một cách hệ thống khỏi sự phê phán và khuyên bảo vốn có thể cứu ông ta khỏi chính mình. Sự thừa nhận rõ ràng của ông ta không bao gồm bất cứ một nhà kinh tế hiểu biết nào --không phải là một điều ngạc nhiên, một người cho rằng, đối với một người mô tả kinh tế học là "không thực sự là một khoa học tới mức như một dạng tiên tri mang đầy giá trị." Nhưng tôi cũng nghi ngờ rằng Greider là nạn nhân của sự nghiêm túc của chính mình. Ông ta rõ ràng đã lấy đề tài của mình (và cả bản thân) một cách quá nghiêm túc để chơi trò chơi trí tuệ. Để kiểm tra một ý tưởng bằng những thử nghiệm tư duy có vẻ bình thường, bằng những câu chuyện giả định về nền kinh tế giản lược sản xuất xúc xích và bánh mì, có lẽ không xứng với phẩm cách của ông ta. Và chính xác bởi vì ông ta nghiêm túc tới mức ý tưởng của ông ta ngu xuẩn đến vậy.

Paul Krugman is a professor of economics at MIT whose books include The Age of Diminished Expectations and Peddling Prosperity.

Article URL: http://www.slate.com/id/1916/

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2009

NỀN KINH TẾ GIỮ TRẺ

Hợp tác xã giữ trẻ bị phá sản dạy cho chúng ta đôi điều có thể cứu rỗi được thế giới.

Cách đây hai mươi năm tôi đã đọc một câu chuyện đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi thường nghĩ về câu chuyện nầy. Nó giúp tôi bình tĩnh trong những lúc khủng hoảng, hy vọng trong những khi suy sụp và kháng cự lại sự bi quan và buông xuôi cho số phận. Ở vào những lúc u ám như thế nầy, khi mà sự khủng hoảng của châu Á dường như đang đe doạ toàn bộ nền kinh tế thế giới, những bài học từ câu chuyện đầy cảm xúc đó trở nên quan trọng hơn bao giờ hết

Câu chuyện được thuật lại trong bài báo nhan đề "Lý thuyết tiền tệ và Sự Khủng hoảng của Tổ hợp Giữ trẻ Đồi Capitol". John và Richard Sweeney công bố bài báo ở tạp chí Journal of Money, Credit and Banking trong năm 1978. Tôi đã sử dụng câu chuyện của họ trong các cuốn sách của mình,
Peddling ProsperityThe Accidental Theorist, nhưng nó đáng được kể lại, lần nầy gắn với châu Á.

Sweeney kể câu chuyện - như bạn đoán đấy - về hợp tác xã giữ trẻ họ đã tham gia đầu những năm 1970. Những tổ hợp như thế rất phổ biến. Một nhóm người (trong trường hợp nầy là 150 cặp có quan hệ công việc với nhau tại quốc hội) thoả thuận giữ trẻ cho nhau để khỏi phải trả tiền thuê giữ. Đây là một thoả thuận có lợi cho tất cả các bên: Một cặp đã phải trông con sẽ cảm thấy nếu phải trông thêm một vài đứa trẻ khác trong một tối cũng chẳng nặng nề gì lắm, dĩ nhiên so với lợi ích mình sẽ được gửi trẻ như vậy trong những tối khác. Nhưng phải có một hệ thống để bảo đảm các cặp thực hiện trách nhiệm hợp lý của mình.

Tổ hợp Đồi Capitol áp dụng một giải pháp giản đơn công bằng. Nó phát hành những tấm vé - những mẩu giấy nhỏ có giá trị một giờ giữ trẻ. Những người trông trẻ sẽ nhận trực tiếp số vé tương ứng từ người nhờ trông trẻ. Điều nầy làm cho hệ thống tự vận hành: Theo thời gian, mỗi cặp sẽ tự động trông trẻ như họ đã được trông hộ.Chừng nào mà những người nầy cón đáng tin cậy - mà rõ ràng là những chuyên viên trẻ trung nầy đúng là như vậy - điều gì có thể xấu đi?

Vâng, có một vấn đề kỹ thuật nhỏ nẩy sinh. Hãy xem vé của một cặp điển hình. Vào những lúc ít có dịp đi chơi, một cặp sẽ cố gắng tích luỹ dự trữ vé - rồi xài hết số vé dự trữ đó khi có dịp. Có một mức trung bình của các nhu cầu nầy. Một cặp sẽ đi chơi khi có một cặp khác ở nhà. Nhưng ở một thời điểm nào đó, do có nhiều cặp muốn giữ dự trữ vé, hợp tác xã cần một lượng vé tương đối lớn trong lưu thông.

Bây giờ, điều xảy ra với hợp tác xã của Sweeney là, do những lý do phức tạp liên quan đến việc thu thập và sử dụng vé, số lượng vé trong lưu thông còn lại rất ít. Điều đó làm cho các cặp lo lắng tăng thêm dự trữ bằng cách trông trẻ, miễn cưỡng đi chơi tiêu xài số vé. Nhưng quyết định đi chơi của cặp nầy là cơ hội trông trẻ cho cặp khác; vì thế rất khó để kiếm được vé. Hiểu được điều nầy các cặp lại càng miễn cưỡng sử dụng dự trữ của họ hơn trừ những dịp đặc biệt, cơ hội giữ trẻ lại càng giảm đi.

Nói ngắn gọn, hợp tác xã đó đã rơi vào suy thoái.

Do phần lớn các thành viên là luật sư, rất khó thuyết phục họ vấn đề ở đây là vấn đề tiền tệ. Họ cố gắng ban hành luật pháp để khôi phục - thông qua luật yêu cầu mỗi cặp phải đi chơi ít nhất hai lần một tháng. Nhưng rốt cuộc các nhà kinh tế đã thắng thế. Nhiều vé hơn được phát ra, các cặp muốn đi chơi nhiều hơn, cơ hội giữ trẻ tăng vọt, mọi người đều vui vẻ. Cuối cùng, hiển nhiên thôi, tổ hợp phát hành quá nhiều vé, dẫn đến những vấn đề khác...

Nếu bạn nghĩ đây chỉ là một câu chuyện ngu xuẩn, một sự lãng phí thời gian của bạn thì bạn thật đáng trách. Cái mà Hợp Tác Xã Đồi Capitol trải nghiệm là một sự suy thoái thực sự.Câu chuyện của nó giúp cho bạn hiểu được suy thoái kinh tế là gì, tại sao nó xảy ra còn nhiều hơn là đọc 500 trang sách của William Greitler và một năm tạp chí Wall Street Journal.Và nếu bạn đắm mình vào câu chuyện đó, vui đùa cùng nó và rút ra những hiểu biết, nó sẽ làm thay đổi cách thức bạn suy nghĩ về thế giới nầy.

Chẳng hạn, giả sử thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ, đe doạ huỷ hoại niềm tin của người tiêu dùng. Điều nầy
không tránh khỏi là một cuộc suy thoái thảm khốc ? Hãy suy nghĩ điều đó theo cách nầy: Khi niềm tin của người tiêu dùng suy giảm, nó sẽ như vậy, vì một vài lý do nào đó, thành viên của tổ hợp sẽ giảm mong muốn đi chơi, lo lắng tích luỹ vé cho những ngày khó khăn. Điều nầy có thể thực sự đưa đến một sự suy giảm - nhưng không nhất thiết là vậy nếu ban quản lý nhạy bén và phản ứng bằng cách phát hành nhiều vé hơn. Đó chính xác là việc mà người phát hành vé xếp sòng của chúng ta Alan Greenspan làm trong năm 1987 - và tôi tin là ông ấy sẽ còn làm nữa. Vì thế, như tôi đã nói ở phần đầu, câu chuyện hợp tác xã giữ trẻ giúp tôi giữ được bình tĩnh khi gặp khủng hoảng.

Hoặc, giả sử Greenspan không phản ứng kịp thời và nền kinh tế thực sự đã rơi vào suy thoái. Đừng hốt hoảng. Ngay cả khi người phụ trách phát hành vé tạm thời bị tụt lại phía sau đường cong, thông thường ông ta vẫn có thể xoay chuyển tình thế bằng cách phát hành thêm vé - đó là việc gia tăng tiền tệ mạnh mẽ như những đợt đã làm chấm dứt các cuộc suy thoái 1981-1982 và 1990-1991. Vì vậy, như tôi đã nói, câu chuyện hợp tác giữ trẻ giúp tôi duy trì hy vọng trong những lúc suy sụp.

Trên tất cả mọi điều, câu chuyện hợp tác xã nầy cho bạn biết rằng suy giảm kinh tế không phải là sự trừng phạt dành cho tội lỗi của chúng ta, không phải là nỗi đau số phận buộc chúng ta phải gánh chịu. Hợp tác xã Đồi Capitol rơi vào rắc rối không phải vì các thành viên của nó là những người giữ trẻ tồi, kém kiệu quả; các rắc rối của nó không cho thấy một sai sót cơ bản nào của "các giá trị Đồi Capitol" hay "chủ nghĩa giữ trẻ thân hữu." Nó có một vấn đề kỹ thuật - quá nhiều người theo đuổi một số vé quá ít - điều mà có thể, và đã được, giải quyết với một chút tư duy sáng suốt. Và vì vậy, như tôi đã nói, câu chuyện tổ hợp giúp tôi kháng sự lại sự buông trôi theo chủ nghĩa định mệnh và bi quan.

Nhưng nếu mọi thứ quá dễ dàng như thế, tại sao một phần lớn thế giới lại rơi trong hỗn loạn? Ví dụ, tại sao nước Nhật lại có thể bị kẹt trong sự suy giảm trông như khó chữa - sự suy giảm dường như không thể thoát ra đơn giản bằng cách in vé? Vâng, nếu chúng ta mở rộng câu chuyện một chút, không quá khó để tạo ra một cái gì đó rất giống với các vấn đề của nước Nhật - và xem xét các nét đại cương của giải pháp.

Trước hết, chúng ta phải hình dung một tổ hợp mà các thành viên của nó hiểu rõ có một sự bất tiện không cần có trong hệ thống. Có những dịp một cặp cần đi chơi nhiều lần liên tục và sẽ xài hết số vé của mình – và vì thế không thể gửi con của mình – cho dù họ thực sự mong muốn sau đó sẽ trông trẻ thật nhiều để bù lại. Để giải quyết vấn đề nầy, tổ hợp cho phép thành viên được mượn vé vượt mức từ ban quản lý khi cần – và trả lại bằng vé nhận được từ việc giữ trẻ sau này (*). Tuy vậy, để ngăn ngừa thành viên lạm dụng ưu tiên nầy, ban quản lý sẽ áp dụng một số hình phạt yêu cầu người mượn phải trả lại số vé nhiều hơn số đã mượn.

Trong hệ thống mới nầy, các cặp sẽ dự trữ số vé ít hơn trước đây do biết rằng họ có thể mượn thêm khi cần. Tuy vậy, ban quản lý hợp tác xã cần có một công cụ quản lý mới. Nếu các thành viên của nó thông báo rằng quá dễ tìm người trông trẻ và rất khó có cơ hội để giữ trẻ, điều kiện để thành viên có thể mượn vé được soạn thảo thoáng hơn, khuyến khích nhiều người đi chơi. Nếu người trông trẻ hiếm đi, các điều kiện sẽ ngặt nghèo hơn, khuyến khích mọi người đi chơi ít đi.

Nói cách khác, hợp tác xã phức tạp hơn nầy sẽ là một ngân hàng trung ương có thể kích thích một nền kinh tế suy thoái bằng cách giảm lãi suất và làm dịu một nến kinh tế quá nóng bằng cách tăng lãi suất lên.

Nhưng thế nước Nhật thì sao - nền kinh tế Nhật suy giảm cho dù lãi suất đã rơi xuống gần như bằng không? Có phải ví dụ giữ trẻ cuối cùng đã gặp phải tình huống nó không thể giải thích được?

Tốt thôi, hãy hình dung có tính thời vụ trong cung và cầu của công việc trông trẻ. Trong mùa đông, trời lạnh và ảm đạm, các cặp không muốn đi chơi nhiều mà chỉ muốn ở nhà và trông con của những người khác – qua đó tích luỹ số điểm họ có thể sử dụng vào những tối hè yên ả. Nếu tính thời vụ nầy không quá mạnh mẽ, hợp tác sẽ vẫn giữ cân bằng giữa cung và cầu của việc giữ trẻ với lãi suất thấp trong những tháng mùa đông, lãi suất cao hơn trong những tháng mùa hè. Nhưng giả sử tính thời vụ thực ra rất mạnh. Khi đó trong mùa đông, cho dù lãi suất bằng không, số cặp tìm kiếm cơ hội để trông trẻ vẫn nhiều hơn số cặp đi chơi, có nghĩa là rất khó kiếm cơ hội để trông trẻ, có nghĩa là các cặp tìm cách tăng dự trữ cho vui chơi trong mùa hè lại càng không muốn sử dụng số điểm đó trong mùa đông, có nghĩa là cơ hội giữ trẻ lại càng ít hơn… và hợp tác xã đó sẽ trượt vào suy thoái ngay cả ở mức lãi suất bằng không.

Và bây giờ là mùa đông chán nản của nước Nhật. Có thể do dân số già nua của nó, có thể do sự lo lắng mơ hồ về tương lai, công chúng Nhật hầu như không muốn tiêu xài nhiều để sử dụng khả năng của nền kinh tế, ngay cả với lãi suất bằng không. Nước Nhật, nói như các nhà kinh tế, đã rơi vào “cái bẫy thanh khoản”chết người. Vâng, điều mà bạn vừa đọc là sự giải thích thô sơ nhất bẫy thanh khoản là gì và cách mà nó xuất hiện. Và khi mà bạn hiểu được đây chính là cái trở nên tồi tệ, câu trả lời cho vấn đề của nước Nhật, dĩ nhiên, quá rõ ràng. (**)

Như vậy, câu chuyện của hợp tác xã giữ trẻ không chỉ là trò giải trí. Chỉ cần mọi người xem xét nó nghiêm túc - chỉ cần họ hiểu được khi nào các vấn đề kinh tế lớn trở nên nghiêm trọng, những chuyện kể kỳ lạ sẽ không còn là sự lãng phí thời gian mà là chìa khoá cho sự giác ngộ - chính đây là câu chuyện có thể cứu rỗi thế giới nầy.

Chúng ta có thể dịch chuyển câu chuyện gần hơn một chút với cách thức mà nền kinh tế thực vận hành bằng cách tưởng tượng rằng các cặp có thể mượn và cho vay vé; khi đó lãi suất trong thị trường vốn thô sơ nầy sẽ đóng vai trò mà “tỉ lệ chiết khấu” của ban quản lý hợp tác xã đóng trong câu chuyện.

Vâng, có thể không rõ ràng lắm. Vấn đề căn bản với hợp tác xã trong mùa đông là mọi người muốn tiết kiệm vé họ kiếm được trong mùa đông để dùng trong mùa hè, thậm chí ở mức lãi suất bằng không. Những về tổng thể, các thành viên của tổ hợp không có thể tích lũy việc giữ trẻ mùa đông để xài trong mùa hè. Do vậy các nõ lực cá nhân thực hiện điều đó rốt cuộc không tạo ra được gì ngoài sự suy giảm trong mùa đông.

Câu trả lời là để làm cho nó rõ ràng là điểm số kiếm được trong mùa đông sẽ bị giảm giá trị nếu giữ cho đến mùa hè - thế này, số điểm kiếm được từ năm giờ giữ trẻ trong mùa đông sẽ tan chảy còn bằng chỉ bốn giờ trong mùa hè. Điều nầy sẽ khuyến khích mọi người sử dụng các giờ giữ trẻ của họ sớm hơn và như thế tạo nhiều cơ hội giữ trẻ hơn. Bạn sẽ cảm thấy dường như có gì đó không công bằng ở đây – nó như là tước đoạt sự tiết kiệm của người khác. Nhưng hiện thực ở đây là hợp tác xã như là một tổng thể không có thể gửi ngân hàng việc giữ trẻ mùa đông để sử dụng trong mùa hè, như thế nó thực sự làm biến dạng động cơ của các thành viên để cho phép họ trao đổi những giờ mùa đông lấy những giờ mùa hè trên cơ sở một-đổi-một.

Nhưng cái gì trong nền kinh tế không-giữ-trẻ tương ứng với vé của chúng ta bị tan chảy trong mùa hè? Câu trả lơih là một nền kinh tế mắc kẹt trong bẫy thanh khoản cần có làm phát kỳ vọng – có nghĩa là, nó cần thuyết phục mọi người rằng đồng yên mà họ cố tích trữ sau một tháng hay một năm sẽ mua được ít hơn so với hôm nay.

Việc chẩn đoán nước Nhật đang ở trong bẫy thanh khoản - và đề nghị lạm phát là một cách để thoát khỏi chiếc bẫy – đã bị phê phán khắp nơi trong những tháng qua. Nhưng họ phải đấu tranh với thành kiến cố hữu cho rằng giá cả ổn định luôn được mong muốn, rằng khuyến khích lạm phát là lừa đảo công chúng lấy mất phần thưởng xứng đáng cho sự tiết kiệm của họ để tạo ra những động cơ lầm lạc và nguy hiểm. Thưc ra, một vài nhà kinh tế và nhà phê bình cố gắng chứng tỏ rằng bất chấp vẻ bề ngoài, nước Nhật đang không kẹt trong bẫy thanh khoản, điều như vậy không thể thực sự xảy ra. Nhưng câu chuyện giữ trẻ mở rộng cho chúng ta biết nó có thể - và lạm phát thực sự là một giải pháp sửa sai kinh tế.

Paul Krugman writes a twice-weekly column for the New York Times and is professor of economics and international affairs at Princeton University. His home page contains links to many of his other articles and essays.

http://www.slate.com/id/1937/
http://www.slate.com/id/2202165/